Việt Nam là một trong những nước nổi bật của cộng đồng ASEAN, trong những năm vừa qua Việt Nam đã luôn thể hiện sự nhiệt huyết và chủ động của mình trong việc xây dựng một ASEAN vững mạnh. Để tìm hiểu kĩ hơn thì hãy theo dõi bài viết dưới đây của chúng tôi để cùng xem Việt Nam gia nhập vào ASEAN năm nào và đã có những đóng góp gì nhé.
I. Asean là gì?
1. Thời gian thành lập
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 08/8/1967 tại Băng-cốc, Thái Lan với sự tham gia của 5 quốc gia thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan. Năm 1984, ASEAN kết nạp thêm Bru-nây Đa-rút-xa-lam. Sau 11 năm Việt Nam tham gia và trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội. Ngày 23/7/1999 ASEAN kết nạp Lào và Mi-an-ma. Ngày 30/4/1999, Cam-pu-chia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành giấc mơ về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á.
2. Mục tiêu của ASEAN
2.1. Tuyên bố ASEAN
Tuyên bố ASEAN hay còn gọi là Tuyên bố Băng-cốc năm 1967 nêu rõ mục tiêu và mục đích của ASEAN như sau:
– Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua những sáng kiến chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm củng cố nền tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình của các quốc gia Đông Nam Á.
– Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực thông qua tôn trọng công lývà pháp quyền trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc;
– Thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau về các vấn đề cùng quan tâm trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, khoa học và hành chính;
– Hỗ trợ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính;
– Hợp tác hiệu quả hơn nhằm sử dụng tốt hơn ngành nông nghiệp và công nghiệp mở rộng thương mại, bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông, liên lạc, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân;
– Thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á
– Duy trì hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự, và tìm kiếm các phương thức để có thể hợp tác chặt chẽ hơn gữa các tổ chức này.
2.2. Hiến chương ASEAN
Đây là văn kiện pháp lý quan trọng của ASEAN năm 2008 đã khẳng định lại các mục tiêu cơ bản trên, đồng thời bổ sung thêm 15 mục tiêu mới nhằm phù hợp với tình hình thay đổi và phát triển.
Bản hiến chương đầy đủ: http://www.asean.org/wp-content/uploads/images/archive/AC-Vietnam.pdf
3. Nguyên tắc cơ bản:
Điều 2 Hiến chương ASEAN khẳng định lại các nguyên tắc cơ bản nêu trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á (TAC) năm 1976, đồng thời bổ sung thêm một số nguyên tắc mới.
4. Các mốc phát triển chính của ASEAN
8/8/1967 | ASEAN chính thức được thành lập với 5 thành viên |
2/1976 | Hội nghị Cấp cao ASEAN đầu tiên được tổ chức |
1/1984 | Bru-nây gia nhập ASEAN |
1994 | Lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) |
1/1992 | Ký Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN và Thỏa thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) |
7/1995 | Việt Nam gia nhập ASEAN |
7/1997 | Lào và Myanmar gia nhập ASEAN |
12/1997 | Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 đầu tiên được tổ chức |
4/1999 | Campuchia chính thức gia nhập ASEAN, đưa ASEAN trở thành một tổ chức khu vực gồm 10 thành viên Ðông-Nam Á |
12/2005 | Hội nghị Cấp cao Ðông Á (EAS) đầu tiên được tổ chức với sự tham gia của lãnh đạo các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Ðộ, Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân |
11/2007 | Hiến chương ASEAN ra đời |
31/12/2015 | Cộng đồng ASEAN chính thức thành lập |
II. Việt Nam gia nhập vào ASEAN năm nào?
1. Thời gian Việt Nam gia nhập ASEAN
Năm 1992 đánh dấu quá trình hội nhập khu vực của Việt Nam sau khi tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), và trở thành Quan sát viên, tham dự các Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) hàng năm. Trong thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia các hoạt động của một số Ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN.
Tháng 7/1994, Việt Nam được mời tham dự cuộc họp đầu tiên của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) và trở thành một trong những thành viên sáng lập của Diễn đàn này.
Ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 (AMM-28) tại Bru-nây Đa-rút-xa-lam, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã nhanh chóng hội nhập, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN và có những đóng góp tích cực trong việc duy trì đoàn kết nội khối, tăng cường hợp tác giữa các nước thành viên cũng như giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, góp phần không nhỏ vào sự phát triển và thành công của ASEAN ngày hôm nay.
2. Sự tham gia và đóng góp của Việt Nam trong ASEAN
Đóng góp đầu tiên đáng ghi nhận của Việt Nam trong ASEAN là vai trò tích cực của Việt Nam trong việc thúc đẩy kết nạp các nước Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia vào ASEAN. Qua đó, hoàn tất ý tưởng về một ASEAN bao gồm toàn bộ 10 quốc gia ở Đông Nam Á, đưa ASEAN trở thành tổ chức đại diện cho toàn khu vực, chấm dứt thời kỳ chia rẽ giữa các nhóm nước, mở ra giai đoạn hợp tác hữu nghị cùng phát triển ở khu vực.
Sư kiện mang dấu ấn đậm nét của Việt Nam trong ASEAN là việc tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998) – chỉ 3 năm sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN và trong bối cảnh khu vực đang trong cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính nghiêm trọng, được các nước thành viên ASEAN và dư luận quốc tế nói chung đánh giá cao.
Với việc thông qua Chương trình Hành động Hà Nội, Cấp cao ASEAN 6 đã góp phần quan trọng tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, khôi phục hình ảnh ASEAN, đặc biệt định hướng cho sự phát triển và hợp tác của Hiệp Hội trong những năm kế tiếp để thực hiện Tầm nhìn 2020.
Tiếp theo đó, từ tháng 7/2000 – 7/2001, Việt Nam đã hoàn thành tốt các vai trò như:
- Chủ tịch Ủy ban thường trực ASEAN (ASC) khóa 34 và ARF
- Tổ chức và chủ trì thành công Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM 34)
- Diễn đàn khu vực ASEAN lần thứ 8 (ARF 8)
- Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đông Bắc Á (ASEAN +3)
- Các Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao giữa ASEAN với các nước đối thoại ( PMC + 10) và với từng nước Đối thoại ( PMC +1)
- Hội nghị sông Hằng- Sông Mê kông vào cuối tháng 7/2001
- Trong năm 2001,Việt Nam làm chủ tịch thì ASEAN và ARF đã đạt được những kết quả quan trọng, tiếp tục phát triển đúng hướng, phù hợp với lợi ích của từng nước ASEAN và lợi ích của cả khu vực.
Sau khi tổ chức thành công hội nghị Cấp cao ASEAN 6 và hoàn thành tốt cương vị Chủ tịch Ủy ban Thường trực ASEAN khóa 34, tiếp tục phát huy vai trò đã được nâng cao trong ASEAN và trên cơ sở những thành tựu, kinh nghiệm tích lũy được trong vai trò chủ trì, điều phối các hoạt động của ASEAN.
Việt Nam đã chủ động hơn trong việc tham gia hợp tác ASEAN, hướng hoạt động của ASEAN vào những nội dung hợp tác thiết thực, vừa đảm bảo lợi ích của Việt Nam, vừa thể hiện quan tâm chung của ASEAN và các nước đối thoại.
Nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực, Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN khác ký với Trung Quốc Tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (2002). Sau khi ký kết, Việt Nam đã chủ động đưa ra các biện pháp cụ thể để thực hiện Tuyên bố này, theo hướng triển khai hợp tác dần từng bước, trước hết trong những lĩnh vực khả thi, ít nhạy cảm.
Các Bộ/ngành của Việt Nam đã từng bước chủ động và tham gia tích cực, hiệu quả hơn trong tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành của ASEAN, từ hợp tác kinh tế, đến khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, giáo dục, văn hóa-thông tin… Việt Nam đã tổ chức thành công một loạt các hoạt động quan trọng của ASEAN trong lĩnh vực hợp tác kinh tế-chuyên ngành như:
- Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 33 (Hà Nội, 8/2001).
- Các hội nghị quan trọng cấp Bộ trưởng hoặc quan chức cao cấp về hợp tác kinh tế ASEAN.
- Tuần lễ khoa học và công nghệ ASEAN (1998)
- Hội nghị Bộ trưởng Môi trường ASEAN (1998)
- Diễn đàn Môi trường ASEAN (1999)
- Hội nghị Bộ trưởng Thông tin ASEAN (2000)
- Cuộc họp Ủy ban văn hóa thông tin ASEAN (2002)
- Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN (2002, 2004)
- Tuần văn hóa ASEAN lần II theo sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ tại Hạ Long (2004)
- Hội thi tay nghề ASEAN (2004)
- Hội nghị ASEANAPOL (1999)
- Hội nghị các quan chức cao cấp về tội phạm xuyên quốc gia (SOMTC-2003)
- Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về chống Tội phạm xuyên quốc gia (AMMTC – 2005)
- Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN (2008)
- Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN (2008)…
Quốc hội Việt Nam cũng tích cực tham gia các hoạt động của Liên minh nghị viện ASEAN (AIPA), trước đây là AIPO. Việt Nam đã chủ trì tổ chức thành công Đại hội đồng AIPO 23 năm 2002 và mới đây nhất là Đại hội đồng AIPA tại Hà Nội tháng 4/2010. Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia vào hàng trăm chương trình, dự án hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau trong ASEAN, đồng thời chủ động đề xuất, chủ trì nhiều dự án hợp tác đa phương của khu vực.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, khi ASEAN có những bước chuyển mạnh mẽ nhằm tăng cường liên kết khu vực, tận dụng những cơ hội mới đang mở ra cũng như ứng phó hiệu quả hơn với các thách thức mới, Việt Nam đã đóng vai trò tích cực cùng các nước ASEAN xây dựng và thông qua Tuyên bố hòa hợp ASEAN II tại Bali, In-đô-nê-xia (10/2003).
Tuyên bố đã đề ra những định hướng chiến lược cho sự phát triển của ASEAN, hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN năng động, tự cường và gắn kết vào năm 2020 (sau này ASEAN quyết định là vào năm 2015) với ba trụ cột chính là Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN (ASCC– ý tưởng về việc hình thành cộng đồng này là theo sáng kiến của Việt Nam); và các Kế hoạch hành động nhằm triển khai thực hiện Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (11/2004 tại Viên chăn), bao gồm: Kế hoạch hành động của ASC, Kế hoạch hành động của ASCC, Hiệp định khung ASEAN về 11 lĩnh vực ưu tiên hội nhập và Chương trình Hành động Viên chăn (VAP).
Trong quá trình soạn thảo và đi đến ký kết Hiến chương ASEAN, văn kiện quan trọng tạo khung pháp lý và khuôn khổ thể chế hỗ trợ ASEAN thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia ngay từ đầu vào quá trình hình thành ý tưởng, sau đó là soạn thảo, ký kết, phê chuẩn cũng như triển khai đưa Hiến chương vào thực tế cuộc sống.
Hiến chương cũng đã thể hiện khá cân bằng và dung hòa quan điểm và lợi ích của cơ bản của các nước thành viên, phản ánh sự “thống nhất trong đa dạng” của ASEAN.
Sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các nhà Lãnh đạo ASEAN ký thông qua Hiến chương (Hội nghị cấp cao ASEAN 13, Sing-ga-po, tháng 11/2007), Việt Nam là một trong những nước sớm phê chuẩn Hiến chương (Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký phê chuẩn Hiến chương ngày 06/03/2008) và tích cực tham gia các hoạt động chung của ASEAN trong việc tiến hành các công tác triển khai đưa Hiến chương vào cuộc sống.
Việt Nam tiếp tục tham gia hiệu quả và có những đóng góp tích cực trong quá trình xây dựng cũng như triển khai lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN gồm các kế hoạch tổng thể xây dựng 3 trụ cột của cộng đồng ASEAN và kế hoạch công tác về sáng kiến liên kết ASEAN (IAI) giai đoạn 2 (2009-2015), được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 14 (tháng 2/2009).
Với tư cách là nước điều phối quan hệ đối thoại giữa ASEAN với nhiều đối tác quan trọng như Nhật Bản, Nga, Mỹ, Ôxtrâylia, Canada và hiện tại là Trung Quốc, Việt Nam đã phát huy vai trò là cầu nối tích cực tăng cường quan hệ giữa ASEAN với các đối tác này, kể cả việc góp phần tháo gỡ một số vướng mắc, giúp nâng tầm quan hệ giữa 2 bên, được cả ASEAN và các nước Đối thoại đánh giá cao. Đồng thời, Việt Nam cũng có những đóng góp tích cực nhằm giữ vững vai trò chủ đạo của ASEAN tại các tiến trình hợp tác khu vực do ASEAN khởi xướng như ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, Cấp cao Đông Á…..Qua đó, góp phần thúc đẩy và đề cao vai trò, vị thế quốc tế của Hiệp hội.
3. Phương hướng tham gia hợp tác ASEAN của Việt Nam trong giai đoạn tới
Sau 15 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã khẳng định được vị thế và uy tín của mình; các nước thành viên ASEAN và các nước đối tác bên ngoài đều đánh giá cao sự tham gia tích cực và những đóng góp của Việt Nam trong việc củng cố và phát triển trong Hiệp hội, cũng như quan hệ hợp tác với các nước đối thoại của ASEAN.
Tham gia hợp tác trong ASEAN đã góp phần quan trọng vào việc củng cố môi trường hòa bình và an ninh cho sự nghiệp phát triển đất nước; phá thế bao vây về chính trị, cô lập về kinh tế, tạo thuận lợi cho triển khai đường lối đối ngoại độc lập tự chủ; đa phương hóa, đa dạng hoá của Đảng ta.
Việt Nam luôn coi trọng hợp tác ASEAN vì ASEAN có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh và phát triển của Việt Nam. Lãnh đạo Cấp cao của Việt Nam cũng đã chỉ đạo phương châm tham gia ASEAN của Việt Nam trong giai đoạn mới sẽ là “tích cực, chủ động và có trách nhiệm”.
Theo đó, để nâng cao hiệu quả tham gia hợp tác ASEAN trong tình hình mới, Việt Nam đã có nhiều đổi mới, từ nâng cao nhận thức và xác định phương hướng, biện pháp hợp tác đến việc cải thiện hiệu quả của tổ chức bộ máy và tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành tham gia hợp tác ASEAN, tạo nên một nỗ lực chung của quốc gia thông qua Chương trình hành động của Chính phủ về việc Việt Nam tham gia ASEAN đến năm 2015.
Theo quy định của Hiến chương, Việt Nam đảm nhận chức Chủ tịch luân phiên của ASEAN từ tháng 1-12/2010. Để đảm nhiệm cương vị quan trọng này, Việt Nam đã có những bước chuẩn bị từ sớm. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định lập UBQG về chuẩn bị và thực hiện vai trò Chủ tịch ASEAN 2010 với sự tham gia của lãnh đạo các Bộ, ngành và nhiều địa phương.Công tác chuẩn bị đang được khẩn trương tiến hành trên các mặt cả về nội dung, lễ tân-hậu cần, an ninh, tuyên truyền…
Trong quý I năm 2010, trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã chủ trì tổ chức và điều hành thành công nhiều hoạt động quan trọng của ASEAN, trong đó đáng chú ý là Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 16 (Hà Nội, 8-9/4/2010) và Hội nghị hẹp các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (Đà Nẵng, 29/2-1/3/2010). Những kinh nghiệm, bài học quý báu rút ra từ quá trình tham gia ASEAN sẽ là tiền đề thuận lợi để Việt Nam có thể đảm đương tốt vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2010, tiếp tục khẳng định vai trò.
Việt Nam đã thành công trong các nhiệm kỳ điều phối quan hệ đối tác với các đối tác lớn và quan trọng của ASEAN như Trung Quốc, EU, Ấn Độ. Hiện nay, Việt Nam đang điều phối quan hệ ASEAN – Nhật Bản giai đoạn 2018-2021.
Việt Nam cùng với các nước tiếp tục triển khai các thỏa thuận và kế hoạch hợp tác quan trọng của ASEAN; Ủng hộ và hợp tác chặt chẽ với Thái Lan và các nước thành viên nhằm đạt được các ưu tiên đề ra cho năm 2019, đồng thời tiếp tục tập trung nguồn lực cho triển khai các kế hoạch xây dựng Cộng đồng trên cả 3 trụ cột; tham gia tích cực và đẩy mạnh liên kết kinh tế nội khối, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư thông qua hoàn tất đàm phán Hiệp định Thương mại Dịch vụ ASEAN (ATISA), xây dựng lộ trình cho cắt hàng rào giảm phi thuế quan và thúc đẩy đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Việt Nam cũng tham gia và đóng góp tích cực vào việc xây dựng và thông qua Tài liệu “Quan điểm của ASEAN về khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” giúp hình thành lập trường chung của ASEAN, thúc đẩy hợp tác trên cơ sở phù hợp với trên cơ sở các giá trị, nguyên tắc cơ bản và vai trò trung tâm của ASEAN. Cùng với các nước ASEAN tham gia tích cực và xây dựng trong quá trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu lực, hiệu quả.
Tham khảo và tổng hợp từ:
- Thông tin từ Bộ ngoại giao.
- Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam: http://chinhphu.vn
- Cổng thông tin điện tử Bộ quốc phòng nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam: http://mod.gov.vnl
- Cổng thông tin điện tử ASEAN VIETNAM 2020: https://asean2020.vn/web/asean